Hai năm thực hiện nghị định số 52/2018/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn

|

Hai năm thực hiện nghị định số 52/2018/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn

Xác định rõ vai trò quan trọng của ngành nghề nô;ng thô;n trong phát triển nô;ng nghiệp, nô;ng thô;n Việt Nam, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, quyết sách phù hợp để thúc đẩy phát triển kinh tế nô;ng thô;n, trong đó phải kể tới Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nô;ng thô;n (Nghị định 52) với nhiều nội dung, cơ chế, chính sách mới. Kết quả sau 2 năm triển khai sâu rộng Nghị định 52 của Chính phủ, đời sống người dân nô;ng thô;n được nâng cao rõ rệt, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế dịch vụ ở nô;ng thô;n tạo sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế - xã hội nô;ng thô;n theo định hướng cô;ng nghiệp hóa, hiện đại hóa và giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Hiệu quả phát triển ngành nghề nô;ng thô;n

Hai năm thực hiện Nghị định 52 của Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương đã tích cực xây dựng kế hoạch, ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cơ sở tổ chức thực hiện. Nhiều địa phương cũng đã phê duyệt và thực hiện quy hoạch phát triển ngành nghề nô;ng thô;n; phê duyệt chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề; xây dựng các chính sách hỗ trợ và hỗ trợ các cơ sở ngành nghề nô;ng thô;n, làng nghề tham gia các hội chợ trong và ngoài địa phương như: Hội chợ triển lãm “Mỗi xã, phường một sản phẩm”, hội chợ thương mại, hội chợ Agroviet, hội chợ làng nghề… Nhờ sự vào cuộc chủ động của các bộ ngành, địa phương, ngành nghề nô;ng thô;n đã có bước phát triển với nhiều khởi sắc.

 

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Năm 2020, tổng số các cơ sở tham gia sản xuất kinh doanh ngành nghề nô;ng thô;n là trên 817 nghìn cơ sở, tăng 119 nghìn cơ sở so với năm 2017 (thời điểm trước khi có Nghị định 52 của Chính phủ). Tổng số lao động trong lĩnh vực ngành nghề nô;ng thô;n là trên 2,3 triệu lao động, tăng 300 nghìn lao động so với năm 2017 (tăng 15%). Tại nhiều địa phương đã hình thành hệ thống các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác đầu tư liên kết với các hộ gia đình, làng nghề trong cung ứng nguyên liệu, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm làm tăng nhanh sản lượng, chất lượng và hiệu quả sản xuất, góp phần tăng thu nhập cho người lao động và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tổng doanh thu từ các hoạt động ngành nghề nô;ng thô;n hiện đạt 236,2 nghìn tỷ đồng, tăng 40 nghìn tỷ đồng (20,5%) so với năm 2017; trong đó các nhóm ngành nghề sản xuất đồ gốm sứ, mây tre đan, thủy tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ, điêu khắc có giá trị cao nhất. Về giá trị xuất khẩu, ngành nghề nô;ng thô;n có mức độ tăng trưởng bình quân khoảng 10%/năm, đóng góp khô;ng nhỏ vào tăng kim ngạch xuất khẩu của đất nước. Hiện, hàng thủ cô;ng mỹ nghệ của Việt Nam đã có mặt tại 163 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó thị trường xuất khẩu chính là Mỹ, Nhật Bản và Châu Âu.

Từ năm 2018 đến nay, đã có 337 nhãn hiệu tập thể, 165 nhãn hiệu chứng nhận và 15 chỉ dẫn địa lý cấp cho các sản phẩm ngành nghề, làng nghề nô;ng thô;n. Đồng thời, triển khai áp dụng khoa học kỹ thuật và cô;ng nghệ vào 51 dự án thuộc Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ, 42 nhiệm vụ hỗ trợ ứng dụng khoa học và cô;ng nghệ cho phát triển ngành nghề nô;ng thô;n vào các lĩnh vực chế biến nô;ng lâm sản, dược liệu, chế biến muối, sinh vật cảnh… Đặc biệt, trong giai đoạn này, Bộ Nô;ng nghiệp và Phát triển nô;ng thô;n đã triển khai 60 mô; hình, dự án thí điểm về phát triển ngành nghề nô;ng thô;n và 100 mô; hình thuộc Chương trình Khuyến cô;ng quốc gia. Các địa phương cũng đã rà soát và cô;ng nhận được 25 nghề truyền thống, 94 làng nghề và làng nghề truyền thống, 137 nghệ nhân và 140 thợ giỏi.

Mặc dù đã có nhiều khởi sắc nhưng phát triển của ngành nghề nô;ng thô;n, làng nghề thời gian qua còn nhiều hạn chế như: Hiệu quả kinh tế, năng suất lao động ở nô;ng thô;n hiện còn thấp; đời sống của người dân, nhất ở vùng sâu, vùng xa chưa cao; sự phân bổ của khu vực ngành nghề nô;ng thô;n, làng nghề khô;ng đồng đều giữa các vùng, miền, địa phương; hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề chủ yếu vẫn là sản xuất tại các hộ gia đình quy mô; nhỏ, tập trung ở khu vực dân cư có mặt bằng chật hẹp khô;ng có khả năng mở rộng; cơ sở hạ tầng làng nghề còn yếu.

Thiết bị cô;ng nghệ sản xuất lạc hậu và gây ô; nhiễm mô;i trường; thiếu đội ngũ lao động có tay nghề giỏi, kỹ năng nghề cao và sự am hiểu về xu hướng thị trường còn yếu; việc tiếp cận vốn vay của các tổ chức tín dụng còn hạn chế, lãi suất vay còn cao, thời hạn vay ngắn nên khô;ng đáp ứng được yêu cầu sản xuất.

Sản phẩm làm ra phần lớn khô;ng theo chuỗi giá trị, cô;ng ăn việc làm chưa được đảm bảo; nhận thức về tầm quan trọng, vai trò, vị trí của việc phát triển ngành nghề nô;ng thô;n, làng nghề truyền thống chưa cao; nhiều địa phương còn lúng túng, chưa cụ thể hóa các nhiệm vụ, chính sách phù hợp với điều kiện của địa phương để thực hiện.

Việc triển khai các chính sách hỗ trợ và thu hút vốn phát triển, di dời các cơ sở sản xuất, làng nghề gây ô; nhiễm mô;i trường vào các cụm cô;ng nghiệp tập trung còn chậm; cô;ng tác đào tạo nghề, truyền nghề, xây dựng thương hiệu làng nghề chưa được quan tâm đúng mức.

Phát triển ngành nghề nô;ng thô;n thời gian tới

Để phát triển ngành nghề nô;ng thô;n, làng nghề thời gian tới cần phát triển theo chuỗi giá trị và đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư, trong đó tập trung vào các giải pháp như:

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chủ trương của Đảng và Nhà nước, ý nghĩa, tầm quan trọng và nhiệm vụ của các Bộ, ngành, địa phương về phát triển ngành nghề nô;ng thô;n, bảo tồn và phát triển làng nghề, nghề và làng nghề truyền thống.

Hai là, tiếp tục xây dựng kế hoạch, đề án, dự án phát triển ngành nghề nô;ng thô;n, bảo tồn phát triển các nghề, làng nghề truyền thống, tổ chức cô;ng nhận nghề làng nghề, cô;ng nhận và tô;n vinh nghệ nhân, thợ giỏi.

Ba là, tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi về vốn, tín dụng cho các cơ sở ngành nghề nô;ng thô;n, hướng đến các nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư đổi mới cô;ng nghệ, nghiên cứu tạo ra sản phẩm mới, đồng thời đơn giản hóa thủ tục vay vốn để tăng cường khả năng tiếp cận của các cơ sở đến nguồn vốn ưu đãi.

Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển khoa học cô;ng nghệ trong hoạt động sản xuất của ngành nghề nô;ng thô;n, ưu tiên cho các lĩnh vực bảo quản, chế biến nô;ng sản, hàng thủ cô;ng mỹ nghệ, đồng thời chú trọng đến xử lý chất thải, giảm thiểu ô; nhiễm mô;i trường tại các làng nghề. Bên cạnh đó, cần khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tại làng nghề tham gia nghiên cứu khoa học.

Năm là, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại các sản phẩm ngành nghề nô;ng thô;n, làng nghề theo Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, Chương trình xúc tiến thương mại - du lịch của các địa phương và Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP); phát triển du lịch làng nghề...

Sáu là, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về ngành nghề nô;ng thô;n, thu hút các nghệ nhân tham gia các hoạt động đào tạo, truyền nghề cho thế hệ kế cận, bảo tồn làng nghề truyền thống; nâng cao vai trò của các hiệp hội, ngành hàng nô;ng thô;n; xây dựng một số trung tâm bảo tồn và phát triển sản phẩm ngành nghề nô;ng thô;n ở những nơi có lợi thế để có thể tập hợp nguồn lực, nghiên cứu, sáng tạo sản phẩm mới./.

Hùng Ngân


Link cá cược về Rồng và Kho Báu